Sau phúc mạc là gì? Các công bố khoa học về Sau phúc mạc

Sau phúc mạc là một thuật ngữ trong tiếng Việt, dùng để chỉ tình trạng hoặc trạng thái sau khi đã trải qua sự căng thẳng, mệt mỏi hoặc khó khăn. Nó thường xuất ...

Sau phúc mạc là một thuật ngữ trong tiếng Việt, dùng để chỉ tình trạng hoặc trạng thái sau khi đã trải qua sự căng thẳng, mệt mỏi hoặc khó khăn. Nó thường xuất hiện trong các cuộc thi thể thao, khi các vận động viên đã hoàn thành một cuộc thi hoặc một giai đoạn trong cuộc thi và cảm thấy mệt mỏi. Sau phúc mạc có thể ám chỉ cảm giác thoải mái, an lành, thư giãn sau khi đã vượt qua một trở ngại hoặc một trạng thái khó khăn trước đó.
Sau khi trải qua một thử thách, một cuộc thi hay một giai đoạn khó khăn, sau phúc mạc là giai đoạn mà mọi người có thể thấy sự thỏa mãn, an vui và thư giãn. Sau phúc mạc thường xảy ra sau khi đã hoàn thành một công việc, một dự án hoặc hoàn thành một mục tiêu.

Trong cuộc thi thể thao, sau phúc mạc thường xảy ra sau khi các vận động viên đã hoàn thành một thành phần của cuộc thi hoặc một chặng đua. Tại thời điểm này, họ có thể cảm thấy mệt mỏi và cần thời gian để nghỉ ngơi và phục hồi sức khỏe. Sau phúc mạc cũng có thể ám chỉ cảm giác hạnh phúc, thỏa mãn sau khi đã đạt được mục tiêu, chiến thắng hoặc vượt qua khó khăn.

Ngoài ra, sau phúc mạc cũng có thể chỉ sự thư giãn và trạng thái tâm lý của người ta sau khi trải qua một giai đoạn khó khăn trong cuộc sống. Sau khi vượt qua những thử thách và khó khăn, sau phúc mạc có thể mang đến cảm giác bình yên, sự cân bằng và hạnh phúc.
Sau phúc mạc có thể hiểu là thời điểm sau khi hoàn thành một nhiệm vụ, một công việc hay một giai đoạn quan trọng trong cuộc sống. Nó có thể là kết quả của sự cố gắng, nỗ lực và sự đau khổ trước đó.

Trong thể thao, sau phúc mạc thường được sử dụng để chỉ thời điểm sau khi các vận động viên hoàn thành một cuộc thi hoặc một trận đấu. Ngay sau khi vượt qua các khó khăn và áp lực của việc tranh tài, sau khi đã đạt được mục tiêu, cảm giác sau phúc mạc thường là sự thoải mái, hài lòng và niềm vui. Đây là thời điểm mà các vận động viên được phép nghỉ ngơi, thư giãn và tận hưởng thành công của mình.

Trong cuộc sống hàng ngày, sau phúc mạc có thể ám chỉ sự nghỉ ngơi, ôn lại và hưởng thụ sau một giai đoạn căng thẳng, đau khổ hoặc stress. Nó thường xuất hiện sau khi đã hoàn thành một dự án quan trọng, một bài kiểm tra khó, một chu kỳ làm việc căng thẳng hoặc một giai đoạn khó khăn trong cuộc sống. Sự sau phúc mạc có thể mang đến sự cảm nhận tích cực, sự pasvà sự thư giãn.

Tóm lại, sau phúc mạc là một trạng thái thoải mái, an lành và hài lòng sau khi đã hoàn thành một nhiệm vụ quan trọng hoặc vượt qua một giai đoạn khó khăn. Đó là thời điểm để nghỉ ngơi, tận hưởng thành quả và chuẩn bị cho những thách thức tiếp theo.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "sau phúc mạc":

Giảm đau sau phẫu thuật và phục hồi sớm sau thay toàn bộ khớp gối: So sánh giữa truyền tĩnh mạch low-dose ketamine liên tục và nefopam Dịch bởi AI
European Journal of Pain - Tập 13 Số 6 - Trang 613-619 - 2009
Tóm tắt

Một nghiên cứu tiền cứu, mù đôi đã so sánh tác động của nefopam và ketamine trong việc kiểm soát đau và phục hồi sau thay toàn bộ khớp gối.

Bảy mươi lăm bệnh nhân được phân ngẫu nhiên để nhận nefopam hoặc ketamine với liều bolus 0.2mgkg−1, sau đó là truyền liên tục 120μgkg−1h−1 cho đến khi kết thúc phẫu thuật, và 60μgkg−1h−1 cho đến ngày hậu phẫu thứ hai, hoặc một thể tích tương đương dung dịch nước muối sinh lý làm giả dược. Điểm đau được đo bằng thang đo analog thị giác lúc nghỉ và vận động, và lượng tiêu thụ morphine quan sát qua 48 giờ. Chúng tôi đo độ gập tối đa của đầu gối vào ngày hậu phẫu thứ ba, và thời gian để đạt độ gập 90°.

Ketamine và nefopam làm giảm tiêu thụ morphine (p<0.0001). Điểm đau, thấp hơn lúc nghỉ và vận động trong nhóm ketamine so với hai nhóm khác trong tất cả các lần đo. Điểm đau thấp hơn ở bệnh nhân nhận nefopam so với giả dược, khi đến phòng hồi sức và 2h sau. Ketamine cải thiện độ gập đầu gối vào ngày hậu phẫu thứ ba (59° [33–63] so với 50° [47–55] và 50° [44–55] ở các nhóm ketamine, giả dược và nefopam, tương ứng, p<0.0002) và giảm thời gian đầu gối gập đến 90° (9.1±4.2 so với 12.3±4.0 ngày, ở các nhóm ketamine và giả dược, tương ứng, p=0.01).

Ketamine tạo ra hiệu ứng giảm spari opioid, giảm cường độ đau, và cải thiện vận động sau thay toàn bộ khớp gối. Nefopam đạt kết quả ít đáng kể hơn trong hoàn cảnh đó.

#nefopam #ketamine #giảm đau sau phẫu thuật #thay thế hoàn toàn khớp gối #phục hồi chức năng #sử dụng opioid tiết kiệm #thang đo đau #biện pháp kiểm soát đau #phục hồi sau phẫu thuật
Khắc phục gánh nặng di chuyển đến các trung tâm có khối lượng lớn để điều trị sarcomas sau phúc mạc liên quan đến cải thiện tỷ lệ sống sót Dịch bởi AI
World Journal of Surgical Oncology - - 2019
Tóm tắt Giới thiệu

Các hướng dẫn khuyến nghị điều trị sarcomas sau phúc mạc (RPS) tại các trung tâm có khối lượng lớn. Tuy nhiên, các trung tâm có khối lượng lớn có thể không dễ tiếp cận tại địa phương. Nghiên cứu quốc gia này đã so sánh kết quả phẫu thuật cắt RPS giữa các trung tâm có khối lượng nhỏ tại địa phương và các trung tâm có khối lượng lớn xa hơn.

Phương pháp

Các bệnh nhân được điều trị cho RPS đã được xác định từ Cơ sở dữ liệu Ung thư Quốc gia (1998–2012). Khoảng cách di chuyển và khối lượng bệnh viện hàng năm đã được chia thành các tứ phân. Hai nhóm được xác định: (1) di chuyển ngắn đến các bệnh viện khối lượng nhỏ (ST/LV), (2) di chuyển dài đến các bệnh viện khối lượng lớn (LT/HV). Kết quả đã được điều chỉnh cho các đặc điểm lâm sàng, khối u và điều trị.

Kết quả

Hai nghìn năm trăm chín mươi chín bệnh nhân đã đáp ứng tiêu chí đưa vào. Nhóm LT/HV trẻ hơn và thường là người da trắng (p < 0.01). Nhóm LT/HV có nhiều bệnh đi kèm hơn, mức độ khối u cao hơn và thường thực hiện cắt bỏ triệt để và xạ trị nhiều hơn (tất cả p < 0.05). Nhóm ST/LV đã trải qua nhiều phẫu thuật cắt R2 đáng kể hơn (4.4% so với 2.6%, p = 0.003). Tỷ lệ tử vong trong vòng ba mươi ngày thấp hơn đáng kể ở nhóm LT/HV (1.2% so với 2.8%, p = 0.0026). Tỷ lệ sống sót sau năm năm tốt hơn ở nhóm LT/HV (63% so với 53%, p < 0.0001). Sau khi điều chỉnh, nhóm LT/HV có 27% cải thiện trong tỷ lệ sống sót tổng thể (HR 0.73, p = 0.0009).

Kết luận

Nghiên cứu quốc gia này gợi ý rằng việc di chuyển đến các trung tâm có khối lượng lớn để điều trị RPS mang lại lợi thế sống sót ngắn hạn và dài hạn đáng kể, hỗ trợ cho việc chăm sóc tập trung cho RPS.

Kết quả điều trị thận niệu quản đôi bằng phương pháp nối niệu quản-niệu quản có nội soi sau phúc mạc sử dụng 1 trocar hỗ trợ
Mục tiêu của nghiên cứu này là nhằm đánh giá tính an toàn và hiệu quả của phương pháp nối niệu quản - niệu quản có nội soi sau phúc mạc sử dụng 1 trocar hỗ trợ để điều trị thận niệu quản đôi hoàn toàn. Từ tháng tháng 9 năm 2016 tới tháng 12 năm 2018 đã có 37 bệnh nhi ở độ tuổi từ 2,4 tháng -105,9 tháng đã được phẫu thuật tại Bệnh viện Nhi Trung Ương. Không có bệnh nhân nào phải chuyển mổ mở để tìm niệu quản. Không có các tai biến trong mổ. Thời gian phẫu thuật trung bình là 81,6 ± 11,7 phút, thời gian nằm viện trung bình sau mổ là 5,1 ± 2,3 ngày. Biến chứng tuột đầu dưới ống thông JJ lên niệu quản gặp ở 3 bệnh nhân trong đó 2 bệnh nhân được lấy bỏ ống thông bằng điện quang can thiệp, 1 bệnh nhân phải mổ mở. Kết quả theo dõi với thời gian sau mổ trung vị là 28,5 tháng cho thấy tất cả bệnh nhân diễn biến tốt. Kích thước bể thận và niệu quản trên giảm có ý nghĩa thống kê. Tất cả bệnh nhân đều có chức năng thận tốt hơn trước mổ. Kết quả nghiên cứu cho thấy phương pháp nối niệu quản-niệu quản có nội soi sau phúc mạc sử dụng 1 troca hỗ trợ là phương pháp khả thi, an toàn và hiệu quả điều trị dị tật thận niệu quản đôi hoàn toàn ở trẻ em.
#Nội soi #1 trocar #nối niệu quản niệu quản #thận niệu quản đôi
KẾT QUẢ PHẪU THUẬT NỘI SOI SAU PHÚC MẠC CẮT NANG THẬN TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 506 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Mô tả một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi sau phúc mạc cắt nang thận. Đối tượng và phương pháp: mô tả hồi cứu các bệnh nhân được chẩn đoán xác định và mổ nội soi sau phúc mạc cắt nang thận tại Bệnh viện Bạch Mai từ 01/2020 đến 06/ 2021. Kết quả: 46 bệnh nhân với tuổi trung bình là 57,72 ± 14,84 (19-83), tỉ lệ nữ/nam là 1/1. Đau thắt lưng là triệu chứng chính gặp ở 87%. Thăm dò hình ảnh thấy đường kính nang, tỷ lệ nhóm nang có kích thước 50-100mm và thành mỏng trên chụp lớp ví tính và siêu âm lần lượt là 77,48±26,53mm (45-183mm) và 79,17±26,05mm (45-183mm), 76,1% và 78,3%, 91,3% và 93,5%. Thời phẫu thuật trung bình là 54,74±16,6 phút. Tai biến: 1 trường hợp chảy máu 2,2%. Biến chứng sau mổ: 2 bệnh nhân chảy máu qua dẫn lưu 4,3%. Thời gian nằm viện là 3,22±1,01 ngày (2-6). Kết luận: Nội soi sau phúc mạc cắt nang thận là phương pháp phẫu thuật  an toàn và hiệu quả trong điều trị nang thận.
#Nang thận #cắt nang thận #phẫu thuật nội soi sau phúc mạc
Điều trị hẹp khúc nối bể thận - niệu quản qua nội soi sau phúc mạc: Đánh giá sau 3 tháng phẫu thuật tại Bệnh viện Việt Đức
Mục tiêu: Đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi sau phúc mạc điều trị hẹp khúc nối bể thận - niệu quản tại Bệnh viện Việt Đức từ năm 2012 đến năm 2017. Đối tượng và phương pháp: Mô tả tiến cứu trên 62 bệnh nhân được mổ nội soi sau phúc mạc điều trị hẹp khúc nối bể thận - niệu quản từ năm 2012 đến năm 2017. Người bệnh được đánh giá đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và chẩn đoán hình ảnh trước và sau phẫu thuật 3 tháng. Kết quả: Tuổi trung bình 29,1 ± 11,1 tuổi. Nam giới chiếm đa số với tỷ lệ là 61,29%. Có 39 bệnh nhân (63%) phẫu thuật theo phương pháp cắt rời tạo hình, 23 bệnh nhân (37%) phẫu thuật theo các phương pháp không tạo hình. Thời gian mổ trung bình là 106,8 phút. Thời gian điều trị sau mổ trung bình 4,74 ngày. Sau 3 tháng: Đường kính trung bình trước - sau bể thận trên phim chụp CT đã giảm đáng kể (37,6mm trước phẫu thuật xuống 15,50mm). Tỷ lệ bệnh nhân có mức độ ứ nước ở mức 3 và 4 giảm (từ 54,84% xuống còn 3,23%). Tỷ lệ bệnh nhân có kết quả điều trị tốt theo tiêu chuẩn chung là 88,71%. Kết luận: Phẫu thuật nội soi sau phúc mạc điều trị hẹp khúc nối bể thận - niệu quản có tỷ lệ thành công cao (88,71%), cho kết quả tương đương với mổ mở, nhưng rút ngắn được thời gian nằm viện và mang tính thẩm mỹ cao hơn.
#Hẹp khúc nối bể thận - niệu quản #phẫu thuật nội soi sau phúc mạc
KẾT QUẢ PHẪU THUẬT NỘI SOI SAU PHÚC MẠC LẤY SỎI NIỆU QUẢN 1/3 TRÊN TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 524 Số 2 - 2023
Mục tiêu: Đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi sau phúc mạc lấy sỏi niệu quản 1/3 trên tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang, hồi cứu và tiến cứu  82 bệnh nhân được chẩn đoán xác định sỏi niệu quản 1/3 trên và phẫu thuật nội soi sau phúc mạc lấy sỏi tại bệnh viện Trung ương Thái Nguyên từ 01/2020 đến 03/2022. Kết quả: 82 BN gồm 62 nam (75,6%) và 20 nữ (24,4%). Tuổi trung bình là 50,2 ± 11,9 tuổi (26 – 72 tuổi). Thời gian phẫu thuật trung bình 64,7 ± 14,2 phút (40 – 120 phút). Thành công 81/82 BN (98,8%), 1BN thất bại phải chuyển phẫu thuật mở. Tai biến trong phẫu thuật: 2BN rách phúc mạc (2,4%), 1BN chảy máu tĩnh mạch sinh dục (1,2%), 1BN tràn khí dưới da (1,2%), 1BN chuyển phẫu thuật mở (1,2%). Số ngày nằm viện sau mổ trung bình 6,1 ± 1,8 ngày (4 – 18 ngày). Biến chứng sớm sau phẫu thuật: 2BN rò nước tiểu, 1BN phải đặt lại JJ, 1BN tự hết. Kết quả sớm: 76BN tốt (93,8%), 4BN trung bình (4,9%), 1BN xấu (2,4%). Kết luận: Phẫu thuật nội soi sau phúc mạc lấy sỏi niệu quản là một phương pháp ít xâm lấn, an toàn và hiệu quả đối với sỏi niệu quản 1/3 trên.
#Sỏi niệu quản 1/3 trên #nội soi sau phúc mạc lấy sỏi niệu quản #phẫu thuật nội soi sau phúc mạc #Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM HÌNH ẢNH KHÁC BIỆT CỦA KHỐI SAU PHÚC MẠC NGOÀI THẬN Ở TRẺ EM TRÊN PHIM CHỤP CẮT LỚP VI TÍNH 128 DÃY ĐẦU THU
TÓM TẮTMục tiêu: nghiên cứu sự khác biệt về đặc điểm hình ảnh của các khối u sau phúc mạc ngoài thận trên cắt lớp vi tính 128 dãy đầu thu (128 MSCT). Đối tượng và phương pháp: Trong nghiên cứu của chúng tôi có 67 bệnh nhi được chẩn đoán khối sau phúc mạc ngoài thận được chụp 128 MSCT và có kết quả giải phẫu bệnh tại bệnh viện nhi TW từ tháng 1.2018 đến tháng 4.2019. Các bệnh nhân được chia thành 9 nhóm: u nguyên bào thần kinh và u hạch nguyên bào thần kinh(n=42), khối thượng thận không phải u( n=8),u quái( n=8), u hạch thần kinh(n=3), u máu(n=1), u xơ thần kinh (n=1), sác côm không biệt hóa (n=1), sác côm cơ vân (n=1), u tủy thượng thận(n=1), u túi noãn hoàng(n=1).Chúng tôi phân tích chi tiết hình ảnh trên 128 MSCT của các bệnh nhân và tìmra các đặc điểm hình ảnh khác biệt, so sánh mức độ ngấm thuốc của các nhóm với nhau và so sánh mức độ ngấm thuốc của các khối với cơ, gan, lách.Kết quả: Tuổi của nhóm nghiên cứu từ 2 ngày đến 11 tuổi, nhỏ tuổi nhất là các khối thượng thận không phải là u, lớn tuổi nhất là u xơ thần kinh. Không có sự khác biệt giữa nam và nữ trong nhóm nghiên cứu. Nhóm khối thượng thận không phải u có kích thước nhỏ nhất. Nhóm u tế bào mầm, u nguyên bào thần kinh, sác côm thường có kích thước lớn. Vôi hóa, bao mạch và dicăn xa gặp nhiều hơn ở nhóm u nguyên bào thần kinh. Mỡ và vôi hóa hay gặp ở nhóm u quái. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về mức độ ngấm thuốc của các khối u (p<0.001). Các khối ngấm thuốc thấp hơn cơ thường lành tính, ngấm thuốc giữa cơ và lách bao gồm nhiều loại lành và ác tính, đa số là u nguyên bào thần kinh, ngấm thuốc mạnh hơn lách có u máu.Kết luận: Có sự khác biệt về một số đặc điểm hình ảnh của các khối sau phúc mạc ngoài thận ở trẻ em trên 128 MSCT.
KẾT QUẢ NỘI SOI SAU PHÚC MẠC ĐIỀU TRỊ UNG THƯ ĐƯỜNG BÀI XUẤT TIẾT NIỆU TRÊN TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 524 Số 2 - 2023
Điều trị ngoại khoa giữ vai trò chủ đạo trong điều trị ung thư đường bài xuất tiết niệu trên. Từ nhiều năm qua bệnh viện Đại Học Y Hà Nội đã tiến hành phẫu thuật nội soi sau phúc mạc cắt thận phối hợp với mổ mở cắt đoạn xa niệu quản và chóp bàng quang điều trị cho nhiều trường hợp ung thư đường bài xuất tiết niệu trên. Nghiên cứu của chúng tôi gồm 40 bệnh nhân mắc ung thư biểu mô đường bài xuất tiết niệu trên trong đó có 28 bệnh nhân hồi cứu và 12 bệnh nhân tiến cứu được phẫu thuật và theo dõi trong thời gian từ năm 2010 đến 2022. Phương pháp nghiên cứu mô tả theo dõi dọc. Mẫu lấy thuận tiện không xác suất. Kết quả: Tuổi trung bình của các bệnh nhân trong nghiên cứu là 62,6 ± 12,35. Nam giới chiếm đa số với 72,5%. Tổng thời gian phẫu thuật trung bình là 136,4 ±28,04phút. Thời gian nằm viện trung bình sau mổ là 7,4 ±1,92ngày. Có 4 bệnh nhân phải truyền máu ngay sau mổ. Không có bệnh nhân nào có biến chứng lớn hơn độ 2 theo phân loại Clavien-Dindo. Có 2 trường hợp bệnh nhân có tái phát tại bàng quang trong vòng 1 tháng sau phẫu thuật. Thời gian sống thêm tính theo phương pháp Kaplan-Meier: từ 0 – 11 tháng là 100%, 12 – 23 tháng là 70%, từ 24 – 35 tháng là 47,5% và từ 36 tháng trở lên là 12,5%.
#ung thư biểu mô đường bài xuất iết niệu trên #phẫu thuật nội soi sau phúc mạc
ĐẶC ĐIỂM HÌNH ẢNH CẮT LỚP VI TÍNH, TUỔI VÀ GIỚI TRONG PHÂN BIỆT CÁC U SAU PHÚC MẠC CÓ NGUỒN GỐC THẦN KINH Ở TRẺ EM
Mục tiêu: Nghiên cứu sự khác biệt về đặc điểm hình ảnh cắt lớp vi tính 128 dãy đầu thu, tuổi và giới ở các khối u có nguồn gốc thần kinh sau phúc mạc ở trẻ em. Đối tượng và phương pháp: Trong nghiên cứu của chúng tôi có 166 bệnh nhân từ tháng 1.2018 đến 12.2020 được chia thành 3 nhóm: u nguyên bào thần kinh (n=126), u hạch nguyên bào thần kinh (n=18), u hạch thần kinh (n=22). Chúng tôi so sánh các đặc điểm về tuổi, giới, đặc điểm hình ảnh của các nhóm u này bằng các test thống kê (Mann Withney và Khi bình phương)trên phần mềm SPSS 20.0. Kết quả: Tuổi chủ yếu của nhóm u nguyên bào thần kinh (UNBTK) là 1,3 tuổi, u hạch nguyên bào thần kinh (UHNBTK) 3,5 tuổi, u hạch thần kinh (UHTK) 6,0 tuổi. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p <0,001. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về giới. Đặc điểm bao mạch của UNBTK 62,7%, UHNBTK 55,6%, UHTK 31,8% có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p=0,025. Đặc điểm chảy máu, vôi hóa, hoại tử, di căn, hạch, dạng nang chỉ thấy ở nhóm UNBTK và UHNBTK. Nhóm UHTK đa số ngấm thuốc thấp hơn cơ chiếm 63,6%. Kết luận: Chẩn đoán phân biệt các khối u sau phúc mạc có nguồn gốc thần kinh ở trẻ em có thể dựa vào tuổi và một số đặc điểm hình ảnh có giá trị.
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ SỚM PHẪU THUẬT NỘI SOI SAU PHÚC MẠC TẠO HÌNH KHÚC NỐI BỂ THẬN-NIỆU QUẢN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 498 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá kết quả sớm phẫu thuật (PT) nội soi sau phúc mạc (NSSPM) tạo hình khúc nối bể thận-niệu quản (BT – NQ). Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: mô tả hồi cứu 59 bệnh nhân (BN) được NSSPM điểu trị hẹp khúc nối BT – NQ. Kết quả: 57/59 BN được đánh giá là PT thành công, đạt tỷ lệ 96,61%, 2/59 BN không có cải thiện trên lâm sàng. Không có tai biến, biến chứng nghiêm trọng trong và sau mổ. Kết luận: PTNSSPM tạo hình khúc nối niệu quản – bể thận cho tỷ lệ thành công cao, an toàn.
#Phẫu thuật nội soi sau phúc mạc #hẹp khúc nối bể thận – niệu quản.
Tổng số: 51   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6